Quốc hiệu Việt Nam - Chín mốc lịch sử đấu tranh dựng nước
(ĐSTB) Từ thời đại đồ đồng, người Việt có khoảng 15 bộ lạc và hàng chục bộ lạc Âu Việt khác sống chủ yếu ở phía bắc nước ta. Trong số bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh nhất. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nhà nước Văn Lang, sử sách ghi là thời Hùng Vương, con cháu nhiều đời sau vẫn nối truyền danh hiệu đó. Thời gian tồn tại nước Văn Lang khoảng từ thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên.
NHÀ NƯỚC ÂU LẠC
Năm 211 trước công nguyên (TCN), Tần Thủy Hoàng cho quân xâm chiếm
đất đai của toàn bộ các nhóm dân tộc người Việt. Thục Phán, thủ lĩnh liên minh
các bộ lạc Âu Việt được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống quân Tần. Năm
208 TCN, Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, liên kết các bộ lạc Lạc Việt và
Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Năm 179 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt, đưa quân đánh chiếm Âu
Lạc, cuộc kháng chiến của An Dương Vương thất bại. Suốt bảy thế kỷ sau đó, mặc
dù các thế lực phong kiến phương bắc thay nhau đô hộ, chia Âu Lạc thành nhiều
châu, quận với những tên gọi khác lạ, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên Âu Lạc
trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của người Việt.
NƯỚC VẠN XUÂN
Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải
phóng được lãnh thổ. Tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, lấy tên hiệu là
Lý Nam
Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Chính quyền họ Lý tồn tại không lâu lại rơi vào
vòng đô hộ của giặc phương bắc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân được khôi phục
sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt
năm 938.
NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT
Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân và vùng cát cứ, thống
nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng và đổi quốc hiệu
thành Đại Cồ Việt, và được duy trì đến thời nhà Lý (1010-1053).
NƯỚC ĐẠI VIỆT (LẦN 1)
Năm 1054, từ việc trên bầu trời nước Việt xuất hiện một ngôi sao
sáng chói nhiều ngày mới tắt, vua Lý Thái Tông liền đổi tên nước thành Đại Việt
và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên cho đến hết thời nhà Trần.
NƯỚC ĐẠI NGU
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế lập ra nhà
Hồ và đổi tên nước thành Đại Ngu (“ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”).
Quốc hiệu đó tồn tại đến khi bọn xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) sang đánh bại
nhà Hồ (tháng 4-1407). Sau mười năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa
chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi mới toàn thắng.
NƯỚC ĐẠI VIỆT (LẦN 2)
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước giống như thời vua Lê Thái
Tông là Đại Việt. Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua hết thời Lê (1428-1787) và
thời Tây Sơn - Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788-1801).
NƯỚC VIỆT NAM
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế đổi tên nước thành Việt Nam. Sách “Đại Nam thực lục” ghi: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3
(1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đem việc
cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”. Đây là lần đầu tiên hai chữ
Việt Nam
được sử dụng với tư cách quốc hiệu, được công nhận hoàn toàn về ngoại giao với
thế giới.
Như vậy, quốc hiệu Việt Nam đã xuất hiện khá sớm trong lịch
sử nước ta. Ngay từ thế kỷ XVI hai chữ Việt Nam xuất hiện đầu tiên ở tiêu đề
cuốn sách “Việt Nam thế chí” (ghi chép về các đời ở Việt Nam) của Trạng nguyên
Hồ Tông Thốc. Trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi soạn năm 1434 cũng đã
nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam: “Vua đầu tiên (của nước ta) là Kinh Dương
Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam, làm tổ Bách
Việt”. Hai chữ Việt Nam
còn được đề cập trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585) và trên nhiều tấm bia cổ.
Vua Gia Long đặt quốc hiệu Việt Nam là sự thể hiện nguyện vọng lâu
đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; thể hiện ý chí, sức mạnh
muôn đời của cộng đồng dân cư Việt. Đây chính là sức mạnh tinh thần lớn lao để
nhân dân duy trì bền bỉ cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc trong suốt 80 năm
bị xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp.
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
Ngày 2-9-1945, sau 80 năm đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh
ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ngày 30-4-1975, miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phong, chế độ
ngụy quyền Sài Gòn dưới sự bảo trợ của bọn Mỹ sụp đổ. Ngày 2-7-1975, trong kỳ
họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất
trí lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và
năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam chính thức về
cả pháp lý lẫn thực tế trên toàn thế giới.
NGUYỄN TẤN TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét